Lịch sử sơ lược Kịch thơ Việt Nam

Giai đoạn 1934-1940:

Kịch thơ Việt Nam khởi đầu là hai tác phẩm Anh Nga (1934) và Tiếng địch sông Ô (1935) của Phạm Huy Thông. Tuy nhiên, đây chỉ là hai bài thơ được kết cấu theo kiểu các vai kịch, cốt dùng để đọc hay ngâm chứ không phải để diễn.Nhưng chẳng lâu sau, những vở kịch thơ theo đúng nghĩa của nó bắt đầu xuất hiện, như:

Ở thế hệ này, kịch thơ đều mang đề tài lịch sử. Các cốt truyện phần lớn đều xoay quanh những biến cố lịch sử gay cấn, những câu chuyện tình yêu éo le, những giằng xé giữa tình và hiếu... Về thể thơ dùng cho kịch thơ, sau những trải nghiệm, thể thơ "8 chữ" được coi là phù hợp hơn cả. Và tùy theo tình huống kịch mà thay đổi tiết tấu bằng những nhịp ngắt đa dạng: 4/4, 2/6, 6/2 hoặc 1/3/4, 2/2/4, v.v...

Giai đoạn 1940-1945:

Đến thế hệ thứ 2 (1940-1945), số tác giả và tác phẩm kịch thơ nhiều hơn. Sự hòa hợp giữa hình thức kịch và ngôn ngữ thơ đã đạt được một bước tiến khá cao. Kịch tính nổi bật và lời thơ óng chuốt, điêu luyện. Nhiều vở kịch thơ đã được đưa lên sân khấu. Về đề tài, đề tài bi tình vẫn còn được ưa chuộng, như:

Tuy nhiên, do những cuộc vận động cứu nước âm ỷ và không khí bắt bớ tù đày ngột thở của những năm tiền cách mạng, nên bên cạnh đề tài trên còn có thêm đề tài anh hùng cứu nước. Tiêu biểu có:

  • Quán biên thùy (1943) và Người mù dạo trúc (1944) của Thao Thao.
  • Lê Lai đổi áo (1943), Lữ Gia (1943), Người Hoa Lư (1945) của Lưu Quang Thuận.
  • Đêm Lam Sơn (1943), Trưng Vương khởi nghĩa (1943), Hội nghị Diên Hồng (1944) và Lam Sơn họp mặt (1944) của Nguyễn Xuân Trâm.
  • Lên đường (1944) của Hoàng Cầm.
  • Lá cờ, Máu anh nhi, Gương phụ nữ, Mầm tin (đều viết năm 1945) của Phan Khắc Khoan.
  • Viễn khách(1942) của Lê Huyền Linh.
  • Kiều Loan (1942) của Hoàng Cầm, v.v...

Giai đoạn 1945- cuối thế kỷ 20:

Từ sau 1945, trong khi kịch nói mỗi ngày một phát triển, thì kịch thơ đi ngược lại, mặc dù có thêm những vở mới và ở Sài Gòn có nhiều vở kịch thơ được phát trên đài phát thanh của các ban kịch Vi Huyền Đắc, Mây Tần (do Đinh Hùng sáng lập), Vũ Hoàng Chương...

Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì:

Kịch thơ Việt Nam không thể chống lại sự đào thải trong tâm lý tự nhiên của các thế hệ khán giả...Những vở được sáng tác và trình diễn thành công ngày một trở nên hiếm dần trong môi trường sinh hoạt văn hóa sôi động, rất nhanh chóng tiếp thu những cái mới từ ngoài đưa đến...Có thể nói, với tư cách một thể loại của văn học kịch, vận mệnh của kịch thơViệt Nam đã hầu như khép lại trong những năm cuối thế kỷ 20[3].

Trong một lần trả lời phỏng vấn, nhà văn Hoàng Công Khanh cho biết:

Sau năm 1953, ngoài Bắc gần như vắng bóng kịch thơ. Ở Sài Gòn, kịch thơ phát huy vai trò trong phong trào sinh viên học sinh... Sau năm 1975, chị Bích Thuận có dựng "Bến nước Ngũ Bồ" ở Thành phố Hồ Chí Minh và ở nhiều nước. Gần đây, ngoài Bắc, vở kịch thơ "Kiều Loan" (của Hoàng Cầm) được dựng trên sân khấu kịch nói và "Cung phi Điểm Bích" (dựng từ kịch thơ cùng tên của ông) lần đầu ra mắt trên sân khấu cải lương...

Và theo ông, thì:

Kịch thơ khó viết (hai phần "kịch" và "thơ" phải hài hòa, khăng khít và gần như cân xứng), kén khán giả và đòi hỏi diễn viên phải biết đọc thơ, ngâm thơ... Quan trọng hơn, diễn viên phải "cảm" được thơ. Vì thế, kịch thơ ngày càng vắng bóng...[4]

Các vở nổi trội trong thời kỳ này là: